Khinh công là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên sự kỳ bí, hấp dẫn của những bộ phim hay tiểu thuyết kiếm hiệp.
Tất nhiên ở đây khinh công đã mang sắc thái thần bí hóa khiến người xem không thể không nhớ đến những tuyệt kỹ công phu như phi thiềm tẩu bích, bích hổ du tường, lục địa phi hành công… Khinh công trở thành tiêu chí để cao thủ phân định trình độ võ công cao thấp.
Phật gia khinh công và Đạo gia khinh công
Giới võ lâm Trung Hoa chia khinh công làm 2 loại chính: Phật gia khinh công – tiêu biểu là Thiếu Lâm và các phái thuộc Nam quyền và Đạo gia khinh công – tiêu biểu là Võ Đang, Nga My… Đạo gia truy cầu đắc đạo thành tiên, rũ bỏ xác phàm, tiêu dao tự tại, “sáng chơi Đông Hải, chiều ở Thương Ngô, trong hành đạo có thuật “Thăng thiên”, hình thành hệ thống lý luận và phương pháp tập luyện khinh công riêng mình. Cơ sở của khinh công Phật gia nằm ở “Thiền tu”, tức tĩnh tọa, tham thiền, khí công.
Giới
võ thuật hẳn ai cũng biết tích Bồ Đề Đạt Ma sư tổ vượt ngược sông
Trường Giang đến Thiếu Lâm Tự chỉ bằng một cọng lau, thể hiện trình độ
khinh công đến mức thượng thừa. Nhưng theo “Võ tăng truyện”, “Thiếu Lâm
Tự chí”, “Thiếu Lâm võ tăng tạp lục”… thì Thiếu Lâm khinh công khởi
nguồn sớm nhất từ Tăng Trù thiền sư, đệ tử của Bạt Đà, phương trượng đầu
tiên của Thiếu Lâm Tự đời Bắc Ngụy (cuối thế kỷ V).
“Thiếu
Lâm ca quyết” dạy rằng, muốn luyện thành chân công phải tuân thủ 3 yếu
quyết: “Tĩnh” (tĩnh lặng), “tùng” (buông lỏng) và “quân tế” (hơi thở
phải giữ thật đều và nhẹ). Trong quá trình luyện phải tránh những điều
gây tổn thương sau: Nhìn lâu hại tinh, nằm lâu hại khí, nghe lâu hại
thần, ngồi lâu hại mạch, đứng lâu hại cốt, đi lâu hại gân, giận dữ hại
gan, tư lự hại tỳ, uống nhiều hại dương, quan hệ nam nữ nhiều hại tủy.
Tăng
Trù vốn họ Tôn, từ nhỏ xuất gia theo Bạt Đà – tăng nhân Thiên Trúc, trụ
trì đầu tiên của Thiếu Lâm Tự. Vốn thân thể yếu nhược, Tăng Trù lập chí
khổ luyện nhiều năm, sau tinh thông Phật lý lại am tường các môn công
phu, đặc biệt là khinh công siêu phàm, có thể phi thiềm tẩu bích, nhảy
lên nóc chùa, ngày đi được mấy trăm dặm.
Về
sau, các hòa thượng như Hồng Ôn, Phúc Hồ, Giác Viễn, Trí Thụy, Huệ Cự,
Hành Khả, Đản Lương, Thanh Chân, Thanh Ngọc, Trinh Tuấn, Trinh Thu… đều
luyện thành tuyệt kỹ khinh công Thiếu Lâm, phi thân qua suối rộng, chạy
nhảy lên vách đá, phóng qua lầu cao, đạp bèo vượt sóng, đi trên nước như
trên đất.
72 tuyệt kỹ khinh công
Thiếu
Lâm Tự trải qua nhiều cơn binh lửa, nhất là năm Dân quốc thứ 17 (1928),
tướng quân phiệt là Thạch Hữu Tam hỏa thiêu Thiếu Lâm Tự, lửa cháy đến
40 ngày, nhiều mật phổ, quyền kinh chứa trong Tàng kinh các, Thiên Vương
điện, Chung cổ lâu bị cháy rất nhiều.
Về
sau võ công Thiếu Lâm được truyền thụ các nơi, tuy có những điểm khác
biệt về chiêu thức nhưng lý luận võ công, nhất là phương pháp truyền
thụ, tập luyện khinh công vẫn là thống nhất.

Trong
thực chiến, khinh công có thể đơn độc đối địch, phát huy uy lực dũng
mãnh, đồng thời có thể kết hợp với các môn võ công khác để phát huy tác
dụng tối đa.
Trong
quá trình phát triển của mình, Thiếu Lâm khinh công đã hấp thu, dung
hợp tinh hoa khinh công của các môn phái khác. Hiện nay, Thiếu Lâm khinh
công còn truyền thụ 72 tuyệt kỹ, có thể kết hợp xuyên suốt trong luyện
tập các môn quyền, côn, kiếm, đao, thương thuật. Trong thực chiến, khinh
công có thể đơn độc đối địch, phát huy uy lực dũng mãnh, đồng thời có
thể kết hợp với các môn võ công khác để phát huy tác dụng tối đa.
Thiếu
Lâm khinh công là kết quả của sự kết hợp mật thiết giữa nội công và
ngoại công. “Nội” là luyện nội khí, khí huyết, tinh thần, kinh mạch;
“Ngoại” là luyện gân cốt, cơ bắp, kình lực. Luyện khinh công phải dùng
lực, ý, khí, thần, tiêu hao năng lượng rất lớn, nếu không biết phương
pháp “dự trữ năng lượng”, “lấy nội dưỡng ngoại” thì tổn hại rất lớn.
Các
cao đồ Thiếu Lâm xưa kia đều luyện thành vài tuyệt kỹ, có người luyện
thành đến mười mấy tuyệt kỹ gồm: Đạp tuyết vô ngân công (đi trên tuyết
không để dấu chân); Bích hổ du tường (trườn lên vách tường đứng như thằn
lằn); Thủy thượng phiêu (chạy trên nước); Siêu cự công (chạy trên đất
như bay); Lưu tinh bộ công (đi lẹ như sao băng); Bào bản công (chạy trên
vách đá dựng đứng); Kim đao hoán chưởng công (tránh né trong rừng đao
kiếm)…
Nguyên lý khinh công Thiếu Lâm
Dưới ánh sáng khoa học, Thiếu Lâm khinh công dựa trên các nguyên lý sau:
Nguyên
lý kích thích năng lượng: Khi gặp nguy hiểm như bị truy đuổi rất gấp,
ta có thể nhảy qua hàng rào cao hoặc khe rãnh rộng mà lúc bình thường
không thể nào thực hiện được. Như vậy lúc ấy sức mạnh và khả năng đó từ
đâu đến? Đó là nguồn năng lượng tiềm tàng trong cơ thể mà đúng vào hoàn
cảnh ấy, điều kiện ấy thì mới khai thác được phần nào một cách không tự
giác.

Qua quá trình luyện công, nhiều dạng vật chất trong cơ thể được kích thích, chuyển hóa thành năng lượng.
Luyện
công chính là để khai thác, vận dụng tiềm năng ấy một cách có ý thức.
Qua quá trình luyện công, nhiều dạng vật chất trong cơ thể được kích
thích, chuyển hóa thành năng lượng. Năng lượng ấy phối hợp với quá trình
chuyên luyện chính xác các tuyệt kỹ khinh công sẽ tạo nên những kỳ tích
mà người thường không thể lý giải nổi như đứng giao đấu trên que nhang,
đạp bèo qua sông…
Nguyên
lý từ hóa, từ trường: Muốn đi trên mặt nước thì phải làm cho trương lực
bề mặt và độ kết dính của nước tăng lên. Vật lý học cho thấy rằng, nước
một khi đạt đến cường độ từ trường nhất định thì sẽ phát sinh biến đổi
các đặc tính vật lý như thay đổi tính dẫn điện, độ kết dính, trương lực
bề mặt. Sự thay đổi ấy là do từ trường gây nên, tạo thành từ hóa. Từ
trường hiện diện ở sinh vật, cơ thể người. Mỗi cơ thể đều có sinh vật
điện và sinh vật từ, hình thành sinh vật từ trường. Người trong trạng
thái khí công thì từ trường rất mạnh, đặc biệt là trong trạng thái nhập
tĩnh.
Nguyên
lý nhập tĩnh: Người nhập tĩnh trong luyện công sẽ thể nghiệm được 8
loại cảm giác, trong đó có cảm giác “khinh” cảm thấy cơ thể nhẹ như tơ
bay. Người luyện công đến trạng thái nhập tĩnh cao độ có thể nhập vào
cảnh giới “vô vi không tĩnh” siêu thoát khỏi vạn vật.
Trong
bộ tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng “Thiên long bát bộ” của Kim Dung có
kể về Đoàn Dự – thái tử nước Đại Lý, do lạc vào bí động mà học được bộ
pháp Lăng ba vi bộ, có thể dễ dàng chạy thoát khỏi sự tấn công của đối
phương. Thực ra, Lăng ba vi bộ là môn khinh công thượng thừa của phái
Tiêu Dao, lấy ý từ câu “Lăng ba vi bộ, la miệt sinh trần” (bước uyển
chuyển đùa trên sóng lượn, tha thướt xiêm y phủ gót hài) trong bài Lạc
Thần phú của Tào Thực, con thứ Tào Tháo. Bộ pháp này di chuyển trên
phương vị 64 quẻ của Kinh Dịch.
theo bee
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét