Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

TẠI SAO CUỘC ĐỜI ĐẦY ĐAU KHỔ? -GIÁ TRỊ CỦA KHỔ ĐAU.

GIÁ TRỊ CỦA KHỔ ĐAU.

Khi gặp một người nghèo, thì trong tâm của chúng ta khởi lên ý nghĩ muốn giúp họ, có thể chúng ta chưa giúp được, vì chúng ta còn nghèo, nhưng một niệm khởi lên cũng gieo được cái nhân lành.

Chính những điều đau khổ của cuộc đời, chính những điều bất như ý giữa cuộc đời, là chỗ chúng ta gây dựng công đức. Cho nên biểu tượng Phật là hoa sen mọc lên từ bùn là vậy.

Chính trong đau khổ cuộc đời mà điều thiện được xuất hiện, chính trong những cái khốn khó, những điều bất như ý, những nghịch cảnh, mà sự giác ngộ đã vượt thoát. Nếu cuộc đời bình yên quá, không có gì khiến con người đau khổ, thì không cần ai phát tâm bồ đề, không ai có lý tưởng tu hành giải thoát thành Bồ Tát, thành Phật được. Và chính nơi nhưng người chưa biết đạo là chỗ mà Phật tử phải phát đại nguyện Bồ Tát.

(Kinh Kim Cang luận giải Trang 330 - TT Thích Chân Quang)

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

Thành Phố Hải Phòng - Khoảng Lặng và Bình Yên

Khoảng lặng trong lòng thành phố Hải Phòng. -

Khoảng lặng trong lòng thành phố Hải Phòng. -

Chiều hôm đó, hắn đi làm về, cũng như thường ngày nhưng hôm nay chỗ làm có một số việc phát sinh, khiến hắn cảm thấy một chút phiền muộn và mệt mỏi

Hắn định không đến chúng thanh niên, nhưng một sự thôi thúc sâu kín nào đó trong tâm hồi đã kéo đôi chân hắn. Trên đường đi, hắn lại cảm giác háo hức vì đây là lần đầu tiên, không biết mọi người trông như nào, sinh hoạt ra sao?

Đến cửa Chùa, trời cũng đã tối, ánh đèn hắt qua những tàn lá. Ngoài sân rất đông các bạn trẻ đang tập Vịnh Xuân Quyền, say mê tập niêm thủ, bạn thì đánh gậy, bạn thì đánh một bài quyền, tất cả nơi họ, lại thấy một sức sống mới.
Bước trên thềm đá, lời kinh bắt đầu nghe rõ hơn, mỗi bước chân lại thêm ấm lại,

Xin cho con mãi mãi
Lòng thương yêu không cùng,
Trải thế giới Tam-thiên,
Đến chúng sinh vô tận.

Ngoài chánh điện, dưới đất, từng đôi dép, đôi giày được các bạn xếp ngay ngắn. Bước vào trong, càng ngạc nhiên hơn khi thấy quá nhiều gương mặt sáng đều rất trẻ. Trong tà áo tràng cách điệu có nét hiện đại, tất cả đều trang nghiêm, thanh tịnh, hát theo lời kinh

Xin cho khắp muôn loài
Sống yên lành bên nhau,
Không ganh ghét giết nhau
Không chiến tranh oán thù

Lặng lẽ quỳ trước Phật, chợt nhớ đến lời của một người Thầy “Hạnh Phúc là được quỳ dưới chân Phật”, khi nghĩ đến điều đó, sự phiền muộn trong lòng lại tan biến, một niềm vui nhỏ bé trong lòng đã chiếm chỗ.

Bao năm qua, không biết đôi chân này đã đi trên bao nhiêu con đường. Hôm nay, cũng đôi bàn chân ấy, cũng lại bước lên một con đường khác, con đường hướng về phía mặt trời, và trên con đường đi, hắn lại thấy mình đã có nhiều lỗi lầm, mặc dù trước đó, thấy mọi thứ đều rất thật, rất đúng.

Một người Thầy đã khéo léo đưa những lời kinh bình dị, dễ hiểu bay bổng truyền cảm trên từng nốt nhạc, như một bản Thánh Ca có sức ấm áp làm lay động tâm hồn bao người nghe.

Ôi tội lỗi chập chùng
Vây kín cả tâm con
Dù tha thiết ăn năn
Nhưng khó trừ diệt được
Cúi xin mười phương Phật
Soi sáng cả lòng con.

Trong Kinh Kim Cang luận giải có đoạn:

Không thể cân đo trí tuệ một người bằng lời nói, mà chính bằng cuộc sống của những người xung quanh ảnh hưởng bởi chính họ

Giờ này, tôi ở đây, quỳ dưới Phật đài, cùng huynh đệ hát (tụng) lời Kinh Khấn Nguyện thì ở ngoài kia, ngay sát thôi, một người bạn thầm lặng vẫn đứng ngoài hiên chùa, quan sát từng bước đi của Huynh Đệ mà giờ tôi mới biết. Suốt mấy năm qua, người bạn ấy trong trang phục của võ sinh, nhưng đã khiến biết bao người biết đạo, trong đó có tôi, và tôi thấy biết ơn người bạn ấy, cũng như các huynh đệ khác trong chúng, những người bạn thầm lặng.

Sau giờ ngồi Thiền, thiền hành, buổi sinh hoạt khép lại với những động tác tập khí công thật sảng khoái và dễ chịu, và dư âm ấy còn kéo dài vào cả tận giấc ngủ đêm hôm ấy.

Chiều hôm đó, hắn đi làm về, cũng như thường ngày nhưng hôm nay chỗ làm có một số việc phát sinh, khiến hắn cảm thấy một chút phiền muộn và mệt mỏi
Hắn định không đến chúng thanh niên, nhưng một sự thôi thúc sâu kín nào đó trong tâm hồi đã kéo đôi chân hắn. Trên đường đi, hắn lại cảm giác háo hức vì đây là lần đầu tiên, không biết mọi người trông như nào, sinh hoạt ra sao?
Đến cửa Chùa, trời cũng đã tối, ánh đèn hắt qua những tàn lá. Ngoài sân rất đông các bạn trẻ đang tập Vịnh Xuân Quyền, say mê tập niêm thủ, bạn thì đánh gậy, bạn thì đánh một bài quyền, tất cả nơi họ, lại thấy một sức sống mới.
Bước trên thềm đá, lời kinh bắt đầu nghe rõ hơn, mỗi bước chân lại thêm ấm lại,
Xin cho con mãi mãi
Lòng thương yêu không cùng,
Trải thế giới Tam-thiên,
Đến chúng sinh vô tận.

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2014

Hạnh Phúc chính là một nội tâm thanh tịnh

Người Biết Sống một mình hạnh phúc

Người Biết Sống Tự Tại

Hạnh phúc chính là một nội tâm thanh tịnh. Khi đọc kinh Người Biết sống một mình, người đọc bắt gặp Chánh Niệm (chánh số 7) trong Bát Chánh Đạo ở đây.

Đọc xong kinh Người Biết Sống một mình, ta hiểu thêm rằng, nếu ai đó thích ở một mình, mà tâm đầy phiền não, vọng tưởng, thì người đó vẫn chưa gọi là Biết Sống một mình. Ngược lại, sống giữa sự ồn ào, sống giữa mọi người, lòng xa rời mọi ái nhiễm thì Đức Phật khen là người Biết Sống một mình (biết sống tự tại), khen là người đó biết an trú trong chánh niệm.

Thời Đức Phật còn tại thế, có một vị khất sĩ tên là Thượng Tọa (Thera) chỉ ưa ở một mình.
Một số vị khất sĩ, thấy có điều gì đó không ổn, bèn bạch Phật. Đức Thế Tôn bèn bảo một vị khất sĩ:

- Thầy hãy tới chỗ mà khất sĩ Thượng Tọa cư trú và bảo với thầy ấy là tôi muốn gặp.

Phật thật nhẹ nhàng và tinh tế, Phật không trách mắng vị Khất Sĩ này, mà chỉ nói rằng

- Thầy đúng là người ưa sống một mình, tôi không nói là không phải. Nhưng tôi biết có một cách sống một mình thật sự mầu nhiệm

Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ sau đây:

Quán chiếu vào cuộc đời
Thấy rõ được vạn pháp
Không kẹt vào pháp nào
Lìa xa mọi ái nhiễm
Sống an lạc như thế
Tức là sống một mình.

Tôn giả Thượng Tọa nghe xong, lấy làm vui mừng sung sướng, cung kính làm lễ Phật và rút lui

Sau đó Phật cho gọi các vị Khất sĩ và dạy bài Pháp

Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi.
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả.
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người Biết Sống Một Mình. (tự tại)

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Có nên đốt vàng mã? 06 tội khi đốt vàng mã

6 “tội lỗi” lớn nhất mà người Việt đang mắc phải khi đốt vàng mã. ("Không nên đốt vàng mã")

93459.html6 “tội lỗi” lớn nhất mà người Việt đang mắc phải khi đốt vàng mã
link http://motthegioi.vn/xa-hoi/doi-song/6-toi-loi-lon-nhat-ma-nguoi-viet-dang-mac-phai-khi-dot-vang-ma-93459.html
Theo sư thầy Thích Tịnh Giác, bản chất của việc đốt vàng mã không phải là xấu, không phải mê tín, nhưng nếu đốt mà không hiểu thì vô tình người Việt đang mắc phải 6 tội lỗi, trong đó lớn nhất là tội làm mất đi tính dân tộc, lừa gạt chính mình và làm tổn thương lòng từ bi.
------------------------------------------------------------------
Có thể thấy, cúng Rằm Tháng Bảy và đốt vàng mã vào ngày này đã trở thành một phong tục của người dân Hà Nội nói riêng và của người Việt Nam nói chung. Hàng nghìn người sẵn sàng bỏ ra tiền triệu để sắm sửa vàng mã, để cúng tế sau đó đốt đi. Vậy, ý nghĩa thực sự của việc đốt vàng mã là gì? Liệu đốt vàng mã có phải là mê tín?
Luận bàn về điều này nhân ngày Rằm Tháng Bảy,  Sư thầy Thích Tịnh Giác - Sư Trụ trì chùa Phúc Sơn, thôn Kim Sơn, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội nói: "Đốt vàng mã không phải là sự mê tín mà là một vấn đề mang tính hiểu biết và giáo dục. Cần phải hiểu là hình nhân thế mạng và vàng bạc là xuất phát từ đâu, khi mọi người đã nghe được và hiểu biết về nó thì tôi tin mọi người sẽ không làm điều đó nữa."

Nếu ai đốt hình nhân thế mạng và đốt vàng mã thì phạm phải những điều như sau:

+ Thứ nhất, mất đi tính dân tộc của người Việt Nam, tức là chúng ta đang bị đô hộ văn hóa.
Vàng mã và hình nhân thế mạng không phải xuất phát từ Việt Nam mà xuất phát từ Trung Hoa. Cách đây mấy nghìn năm, chúng ta nằm ở phương Bắc, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa này. Thời xưa, tại Trung Quốc có những hủ tục tin vào thần quyền, tin vào thần linh, tin vào sự huyền bí. Con người thời buổi đó chưa được văn minh, chưa phát triển nên họ nhìn bóng đèn điện cũng cho rằng ma quỷ. Mỗi năm đến ngày tế hà bá thì họ mang một cô gái đẹp trong làng để dâng cho hà bá. Hoặc là ngày cúng thần lửa cũng phải đưa một cô gái đẹp lên giàn thiêu. 
Hay khi nhà vua chết, các cung phi mỹ nữ của vua cũng phải tuẫn tiết theo. Nhà vua chết, quan quân phải xây lăng tẩm ở dưới lòng đất sau đó đưa hết vàng bạc, châu báu của nhà vua đem chôn ở dưới đó với ý nghĩ là trả lại cho vua. Và xuất phát từ đó, hình nhân thế mạng, vàng mã được tạo ra là để đối phó với những hủ tục này.
Vua chết, các quan quần thần có con gái là phi tần của vua cũng đau đớn vì con mình phải chết theo. Khi con người bắt đầu văn minh, bắt đầu biết yêu thương lẫn nhau, bắt đầu có tình người thì họ phải nghĩ cách để đối phó với các tập tục. Các hình nhân được tạo ra, trên người hình nhân có ghi tên của các phi tần, của các cô gái đẹp được mang đi đốt, như là một sự thế mạng cho con người. Vàng bạc cũng vậy, nếu mang chôn đi sẽ là sự lãng phí lớn, làm tổn thất của cải của đất nước nên người Trung Hoa cũng làm vàng mã để đốt đi, thay cho vàng bạc phải mang chôn.
Người Trung Hoa làm vậy để cứu mạng những người sống cho nên việc làm này là rất đúng" - Sư thầy Thích Tịnh Giác cho biết.

Cũng theo thầy Tịnh Giác, vào thời kỳ đó vẫn chưa có trường học, giáo dục chưa phát triển nên không thể truyền đạt được ý nghĩa này cho thế hệ sau mà mai một dần qua hình thức truyền khẩu, tam sao thất bản, người trước làm rồi người sau biến hóa đi và vàng mã không còn được sử dụng theo đúng nghĩa nữa. Người ta cứ nghĩ là khi có ai chết là phải đốt vàng mã, hay khi bị bệnh tật thì phải đốt hình nhân để chữa bệnh nên mới dẫn đến việc không hiểu và làm không đúng. Đốt vàng mã với ý nghĩa để cho người đã chết được tiêu dùng thì lại càng sai, và khi đó, đốt vàng mã trở thành mê tín. 
"Ngày nay, chúng ta đang sống trong xã hội phát triển, văn minh hơn, không còn những hủ tục khi xưa nữa thì cũng nên dừng lại việc đốt vàng mã không đúng nghĩa như thế này. Nếu như chúng ta vẫn sử dụng vàng mã thì vô tình chúng ta đang mất đi sự hiểu biết của mình, làm mất đi văn hóa, tín ngưỡng, mất đi bản chất của dân tộc Việt, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đang bị nô lệ về văn hóa" - Thầy Tịnh Giác nói.

+ Tội thứ hai, khi đốt vàng mã mà thầy Tịnh Giác đưa ra là: đốt vàng mã chính là một sự mâu thuẫn trong tâm tư của con người. Khi người thân mất đi, ai cũng cầu mong họ sẽ được về một thế giới an lạc, một thế giới tươi đẹp chứ không ai mong muốn người thân chết đi lại phải xuống âm phủ. Thế nhưng khi người Việt đốt vàng mã thì lại có ý nghĩ rằng đốt cho người thân ở dưới âm phủ có cái mà dùng. Đó chính là một sự mâu thuẫn lớn trong tư tưởng. Tâm thì muốn người thân đi về cõi trên, nhưng hành động thì lại thể hiện là người thân đó bị đày xuống địa ngục làm trâu làm ngựa, làm ma quỷ để nhận những thứ được đốt, tức là người đó sẽ không được siêu thoát.

+ Tội thứ ba, là chúng ta đang lừa gạt chính mình. Tội lừa dối chính bản thân là tội nặng nhất. Chúng ta cúng 1 triệu nhưng lại không dám cầm 1 triệu đó ra để đốt, mà phải tốn thêm 50 nghìn tiền xe để chạy đi mua vàng mã, tức là quy đổi tiền thật thành tiền giả, đồ dùng giả sau đó mới mang về đốt để lừa dối chính mình. Như vậy, chúng ta đang sống có xác mà không có hồn, không có sự tỉnh thức. Con người sống mà không có hồn là con người vô dụng, không có ích cho xã hội và là một sự lãng phí vô cùng lớn" - Sư thầy Thích Tịnh Giác phân tích.

+ Tội thứ tư mà người Việt đang mắc phải khi đốt vàng mã là làm tổn thương lòng từ bi, con người quá ư ích kỷ. Trong khi bao nhiêu người nghèo đang đói khổ, đang mắc phải chứng bệnh nặng thì không góp tiền lại để cứu giúp họ, đóng góp để nghiên cứu chữa trị những căn bệnh nan y mà nhẫn tâm đem đốt những đồng tiền của mình một cách vô nghĩa. Cũng có nghĩa người Việt đang tiêu diệt lòng từ bi của chính mình, dẫn đến xã hội bất an, gia đình bất ổn. Con người không còn tình thương thì sẽ không có chuyện thương vợ thương chồng thương con thương cái. Vô hình, hành động đó đang tạo lên một sự bất an lớn cho gia đình, xã hội.

+ Tội thứ năm, chúng ta đang tin tưởng một cách vô căn cứ những điều mà chúng ta đang làm. Việt Nam đồng không phải là tiền tệ phổ biến thế giới, và khi giao dịch với các nước khác, đồng tiền của chúng ta phải được bảo chứng, phải thông qua ngân hàng để đổi sang tiền USD, tiền của Lào, của Thái Lan, của Campuchia.... để giao dịch. Vậy với loại tiền vàng mã mà chúng ta đang đốt, ai sẽ là người bảo chứng cho chúng ta là sẽ dùng được ở dưới âm phủ? Ngân hàng nào sẽ đứng ra quy đổi cho chúng ta? Cho nên đây là điều không hợp lý và chúng ta cần phải xem lại xem tinh thần của mình liệu có đang ổn định?" - Thầy Tịnh Giác nói.

+ Tội thứ sáu, khi đốt vàng mã làm phạm phải tội sát sinh. Giấy được làm từ cây rừng, khi con người sử dụng phải có sự chuyển đổi, phải giúp ích cho cuộc sống của con người. Nếu sử dụng chỉ để thỏa mãn cho vấn đề tâm linh nhưng sự thỏa mãn đó lại không có căn cứ, không hợp lý thì vô tình gây nên sự lãng phí lớn, đang khuyến khích chặt cây rừng, hủy hoại môi trường, đe dọa đến cuộc sống của con người để phục vụ mục đích không đúng đắn. Đó là cũng được xếp vào tội sát sinh.
"Chúng ta đều là những người có ăn có học cho nên đừng để thua nhưng "con buôn", đừng để sống chỉ có xác mà không có hồn. Tôi tin rằng, khi mọi người biết được, hiểu được thì sẽ mọi người sẽ hành động khác" - Thầy Thích Tịnh Giác kết luận.

Theo sư thầy Thích Tịnh Giác, bản chất của việc đốt vàng mã không phải là xấu, không phải mê tín, nhưng nếu đốt mà không hiểu thì vô tình người Việt đang mắc phải 6 tội lỗi, trong đó lớn nhất là tội làm mất đi tính dân tộc, lừa gạt chính mình và làm tổn thương lòng từ bi.

Có thể thấy, cúng Rằm Tháng Bảy và đốt vàng mã vào ngày này đã trở thành một phong tục của người dân Hà Nội nói riêng và của người Việt Nam nói chung. Hàng nghìn người sẵn sàng bỏ ra tiền triệu để sắm sửa vàng mã, để cúng tế sau đó đốt đi. Vậy, ý nghĩa thực sự của việc đốt vàng mã là gì? Liệu đốt vàng mã có phải là mê tín?
Luận bàn về điều này nhân ngày Rằm Tháng Bảy, Sư thầy Thích Tịnh Giác - Sư Trụ trì chùa Phúc Sơn, thôn Kim Sơn, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội nói: "Đốt vàng mã không phải là sự mê tín mà là một vấn đề mang tính hiểu biết và giáo dục. Cần phải hiểu là hình nhân thế mạng và vàng bạc là xuất phát từ đâu, khi mọi người đã nghe được và hiểu biết về nó thì tôi tin mọi người sẽ không làm điều đó nữa."

Nếu ai đốt hình nhân thế mạng và đốt vàng mã thì phạm phải những điều như sau:

30 LỜI KHUYÊN CỦA NGƯỜI CHA


“Con à!

1. Mỗi ngày con hãy nhớ dành lời khen tặng vài người.
2. Mỗi năm ít nhất một lần con hãy chờ xem mặt trời mọc.
3. Nhìn thẳng vào mắt mọi người khi nói chuyện và nói lời “cám ơn” càng nhiều càng tốt.
4. Hãy sống dưới mức con kiếm được. Đối xử với mọi người như con muốn được họ đối xử như thế.
5. Kết thêm những người bạn mới nhưng trân trọng những người bạn cũ. Đừng giao du quá rộng. Phải học cách trả lời “không” một cách lễ phép và dứt khoát.
6. Đừng bao giờ ngồi lê đôi mách. Hãy giữ kỹ những điều bí mật.
7. Con đừng mất thì giờ học các mánh khoé doanh nghiệp. Hãy học làm doanh nhân chân chính.
8. Con hãy can đảm. Nếu tự con không được can đảm lắm thì cũng phải tỏ ra can đảm. Người ta không phân biệt một người can đảm với một người tỏ ra can đảm.
9. Con phải dành thì giờ và tiền bạc làm việc thiện và đừng bao giờ lường gạt một ai.
10. Học cách lắng nghe. Cơ hội trong đời nhiều khi đến gõ cửa nhà con rất khẽ.
11. Đừng bao giờ làm cho ai mất hy vọng, nhiều người chỉ sống nhờ hy vọng đấy con ạ.
12. Con đừng cầu mong của cải, mà phải cầu mong sự khôn ngoan, hiểu biết và lòng can đảm.
13. Đừng hành động khi con đang giận dữ.
14. Con phải giữ tư thế đàng hoàng. Muốn đến một nơi nào đó phải có mục đích và tự tin rồi hãy đến.
15. Đừng bao giờ trả công cho ai trước khi họ xong việc.
16. Hãy sẵn sàng thua một trận để chiến thắng cả cuộc chiến.
17. Cẩn thận với những kẻ nào mà họ không còn gì để mất.
18. Khi gặp một nhiệm vụ khó khăn, con hãy hành động như không thể nào bị thất bại.
19. Đừng mong chờ cuộc đời đối xử sòng phẳng với con.
20. Đừng đánh giá thấp sức mạnh của sự tha thứ.
21. Thay vì dùng từ “có vấn đề”, con hãy thay bằng từ ngữ “có dịp may”.
22. Cẩn thận về đồ đạc và áo quần. Nếu con định dùng thứ gì trên năm năm thì phải sắm thứ tốt nhất có thể được.
23. Khi nhìn những quãng đời đã qua, hãy tiếc những gì chưa làm được chứ đừng tiếc những điều đã làm xong.
24. Đừng quan tâm đến bè nhóm. Những ý tưởng mới mẻ, cao thượng và có tác động đến cuộc sống luôn luôn là những ý tưởng của các cá nhân biết làm việc.
25. Những nhạc sĩ trình diễn bên đường thường có nhiều điều đáng trân trọng. Con hãy dừng lại, lắng nghe và nhớ tặng gì đó cho họ.
26. Khi gặp vấn đề trầm trọng về sức khoẻ, con hãy nhờ ít nhất ba vị thầy thuốc khác nhau xem xét.
27. Đừng tập thói trì hoãn công việc. Làm ngay những gì cần phải làm vào đúng lúc phải làm. Không ai chờ đến lúc hấp hối để nói “giá như tôi còn thêm được thời gian…”.
28. Đừng sợ phải nói “Tôi không biết” hay “Xin lỗi, rất tiếc…”.
29. Hãy ghi sẵn những điều gì con muốn được trải qua trong cuộc đời. Luôn luôn mang theo trong túi áo bảng ghi những điều đó, và thường xuyên tìm cơ hội có thể được để thực hiện.
30. Hãy thường xuyên gọi điện cho mẹ con nhé!"

st

Thứ Hai, 4 tháng 8, 2014

Gia đình nhỏ, bên Niềm Tin, trở về "Vườn Xưa"!





 Một chuyến đi dã ngoại thú vị của gia đình, vào một chiều mưa nhỏ, chớm Thu. (03/08/2014)


 Nét xưa vương lại “nếp nhà nông”
Tìm cội, Ta-Người gánh nhớ mong

Hai câu thơ quá đẹp, thu gọn mình trong một tấm bảng nhỏ, cùng hàng cây xanh mát rung rinh, chào đón những tâm hồn yêu thương về với Vườn Xưa.

Cơn mưa chiều chợt đến, lại càng khiến Vườn Xưa thêm tinh khiết, mát mẻ, lá sen lại càng xanh hơn trong làn ao biêng biếc.

Sự bộn bề dường như tan biến, lo lắng cũng không còn. Kệ ngày mai, mặc cho ngày đã qua, khẽ nhắm mắt một chút, cảm nhận một hơi thở nhẹ nhàng, thấy một niềm hạnh phúc đơn sơ.
Đây cũng là một dịp thật đẹp để cô con gái đáng yêu thấy được “cảnh xưa”, thấy được cối đá, cối xay, những chiếc bát bằng đất, con thuyền gỗ, ao sen, Để lòng con biết yêu thiên nhiên hơn, thấy được cái đẹp từ những điều bình dị nhất.

Bóng chiều tà hơi ích kỷ, đã nuốt gần hết cảnh vườn vào màn đêm, nhưng không Vườn Xưa lại khoác lên mình một chiếc áo khác. Ngồi bên một người bạn thân học từ cấp ba, trên chiếc thuyền gỗ, ai cũng đều đang chiếm trọn một vẻ đẹp riêng vào lòng mình. Dưới ao nhỏ, tĩnh mịch, tiếng một vài con ếch nghịch ngợm “Ộp” “Ộp” gần thác nước. Có lẽ lúc này, âm thanh hay nhất đó là sự tĩnh lặng. Nếu bạn từng đến đây, bạn sẽ cảm nhận thấy điều đó.

Lặng ngắm trời sao, chợt thấy buồn cười vì một suy nghĩ vừa ùa về, cuộc đời con người suốt ngày loanh quanh hai chữ “Vui-Khổ”, không thì tránh khổ tìm vui. Trong lúc này, lòng tôi đang ngập tràn cảm giác thoải mái, thì đâu đó vẫn có biết bao tâm hồn vẫn đang đau khổ. Chợt lại tự nói với lòng mình, hãy biết sống để đem lại niềm vui.

Chuyến đi khép lại cùng với lời chia sẻ nhẹ nhàng của Thầy Tuyên, chủ nhân của Vườn Xưa. Lời Thầy ấm áp và để lại một kỉ niệm đẹp trong mỗi chúng tôi.