Nếu đang đi ngoài nắng hoặc làm việc trong điều kiện nắng
nóng mà có một ly nước, kể cả nước ngọt có gas để lạnh hay thêm đá uống vào, sẽ
thấy “thật đã khát” hơn là một ly nước lạnh thông thường. Lý do, ngoài phần nước
và độ lạnh của đá, vị ngọt của nước đường làm dịu vị giác, đặc biệt là những bọt
khí carbonic (CO2) lăn tăn trong nước có gas tác động vào gai lưỡi và vòm họng
đem lại cho người uống một cảm giác tê tê, lành lạnh thật đã, thật sảng khoái,
“tưởng chừng như” làm dịu ngay cơn khát. Thêm vào đó, chất đường và cafein có
trong nhiều loại nước ngọt còn là một chất kích thích gây thêm cảm giác sảng
khoái. Còn gì bằng!
Thế nhưng sau đó một lúc, cơn khát lại dậy lên vì nồng độ đường
cao làm ta khát nước thêm. Và ta muốn uống tiếp!
Cứ thế, người ta cứ uống, và các hãng nước ngọt cứ quảng cáo
và phát triển không ngừng!...
Vấn đề đặt ra là: Giải khát bằng nước ngọt vô chai, đóng lon
có gas: lợi hay hại cho sức khỏe?
Soft drink (tiếng Mỹ, còn gọi là soda, pop, soda pop, hay
carbonated beverage), như Coca Cola (Coke), Pepsi, Sprite, 7 Up, Xá xị, Trà Dr
Thanh, Trà xanh 0 độ, Chương dương, Tribeco… là thức uống ngọt, chứa nước được
carbonat hóa, chất làm ngọt và chất cho mùi vị…
Chất làm ngọt có thể là đường, xi rô bắp giàu fructose (high
fructose corn sirup) làm từ bắp đường hóa, hoặc một chất thay thế đường (dùng
cho người cữ đường). Ngoài ra còn có cafein và hương liệu hóa học, hoặc nước ép
trái cây, chiết xuất thảo mộc…..
Tác động trên sức khỏe:
Uống nước ngọt có gas chứa đường có liên hệ đến bệnh béo
phì, tiểu đường type 2, sâu răng, và suy dinh dưỡng. Nhiều loại nước giải khát
chứa các thành phần đáng quan ngại: cafein dùng nhiều sẽ gây kích thích và mất
ngủ. Tác động trên sức khỏe của xi rô bắp là vì fructose từ bắp và chất làm ngọt
nhân tạo (đường hóa học) còn nhiều bàn cãi… Sodium benzoat đã được khảo cứu cho
thấy có thể là nguyên nhân gây tổn hại DNA (phần tử chính mang mã di truyền) và
tăng tính hiếu động… Các chất có ảnh hưởng bất lợi khác cho sức khỏe, trong đó
có benzen (một chất có nguy cơ gây ung thư).
Năm 1998, Trung tâm khoa học về lợi ích cộng đồng ở Mỹ đã
công bố một báo cáo đặt vấn đề: “Nước ngọt có gas đang gây hại cho sức khỏe người
Mỹ”. Báo cáo đã xem xét các thống kê liên hệ đến việc tăng vọt mức tiêu thụ nước
ngọt có gas, đặc biệt là ở trẻ em, và hậu quả là gia tăng các vấn đề về sức khỏe
như: sâu răng, suy dinh dưỡng, béo phì, tiểu đường type 2 (trước đây chỉ xảy ra
ở người lớn) và bệnh tim mạch. Cơ quan này cũng xem xét lại việc quảng cáo nước
ngọt và đưa ra nhiều khuyến cáo nhằm giảm việc tiêu thụ nước ngọt có gas.
Béo phì và những bệnh có liên hệ đến tăng cân:
Từ năm 1977 đến 2001, mức tiêu thụ nước ngọt có gas của người
Mỹ tăng gấp đôi, một cái đà gia tăng song song với việc tăng gấp đôi số người mắc
bệnh béo phì. Việc tiêu thụ nước ngọt có gas liên hệ đến thể trọng và béo phì,
đồng thời làm thay đổi những con số nguy cơ về tăng thể trọng. Một khảo cứu
trên 548 học sinh trong vòng 19 tháng cho thấy việc tiêu thụ nước ngọt có gas
có liên quan đến sự thay đổi chỉ số thân khối (BMI). Mỗi chai (hoặc lon) nước
ngọt trẻ uống thêm hàng ngày đi kèm với sự gia tăng BMI lên 0,24 kg/m2. Cũng vậy,
một khảo cứu trong vòng 8 năm trên 50.000 nữ điều dưỡng để so sánh sự tăng trọng
giữa những người từ không uống nước ngọt đến uống hơn 1 lon/ngày, với những người
từng uống hơn 1 lon/ngày nay hầu như không uống nước ngọt nữa, thì thấy những
phụ nữ uống thêm nước ngọt tăng trung bình thêm 8 kg trong thời gian theo dõi,
so với những phụ nữ giảm uống nước ngọt chỉ tăng trung bình 2,8 kg. Người uống
càng nhiều nước ngọt có gas thì càng tăng cân nhiều. Sở dĩ uống nước ngọt có
gas bị như thế là vì chất ngọt từ đường bắp (corn sirup) mà nước ngọt ngày nay phần
lớn chứa đường fructose mà trong cơ thể không cần có insulin nó cũng biến thành
mỡ thừa nên gây mập!
Uống nước ngọt có gas cũng liên hệ với nhiều bệnh thường gặp
ở người thừa cân, bao gồm hội chứng chuyển hóa mà biểu hiện là thừa cân, tiểu
đường, huyết áp cao, nguy cơ tim mạch và cuối cùng là rút ngắn tuổi thọ!
Sâu răng:
Hầu hết nước ngọt có chứa một lượng lớn đường đơn: glucose,
fructose, saccarose... Vi khuẩn trong miệng làm lên men các loại đường bột và tạo
ra acid, làm hủy hoại lớp men răng. Nhiều loại nước giải khát có gas đều có
tính acid, một số loại có pH = 3, hay thấp hơn, nên sẽ ăn mòn men răng.
Do đó, uống nước ngọt có gas thường xuyên càng tăng nguy cơ
bị sâu răng.
Giảm kali/huyết:
Đã có những báo cáo về một số trường hợp giảm kali/huyết
nghiêm trọng liên quan đến uống quá nhiều nước ngọt có gas.
Giảm tỷ trọng xương (loãng xương):
Có nghiên cứu cho rằng có mối liên quan trái chiều giữa tiêu
thụ nước giải khát có gas và tỷ trọng xương ở các cô gái trẻ, khiến họ có nguy
cơ cao sẽ bị loãng xương, gãy xương trong tương lai.
Một giả thuyết được đưa ra để giải thích: đó là do chất acid
phosphoric chứa trong một số nước có gas (như Coca Cola) sẽ làm chuyển calci ra
khỏi xương, do đó làm giảm tỷ trọng xương, làm cho bộ xương yếu đi (loãng
xương). Trong những thập kỷ 1950 - 1960, tại Pháp và Nhật đã có ý định cấm bán
Coca Cola vì nguy cơ chất phosphat trong loại nước giải khát này có thể ngăn cản
sự hấp thu calci. Nhưng ý định này không đạt kết quả vì người ta đã chứng minh
lượng phosphat quá ít để có thể gây tác động có ý nghĩa.
Giá trị dinh dưỡng:
Trừ những loại nước có tăng cường thêm chất dinh dưỡng, nước
ngọt có gas hầu như không chứa vitamin, chất khoáng, chất xơ, chất đạm và những
chất dinh dưỡng thiết yếu khác. Nước giải khát có gas cũng thay thế sự lựa chọn
các loại nước giải khát tốt cho sức khỏe khác như nước, sữa, nước ép rau quả
nên làm tăng nguy cơ thiếu dinh dưỡng cho người dân…
Chất đường:
Lượng đường chứa trong nhiều loại nước ngọt thường cao hơn
lượng đường được khuyên dùng hàng ngày (theo khuyến cáo của Bộ nông nghiệp Hoa
Kỳ, không dùng quá 10 muỗng cà phê đường cho một khẩu phần 2.000 calo/ngày).
Cho đến năm 1985, lượng calo trong nước ngọt là do đường mía
hay xi rô làm từ bột bắp. Từ năm 2010, ở Mỹ và các nước khác, hầu như dùng hoàn
toàn xi rô bắp có tỷ lệ fructose cao (high fructose corn sirup), vì nó rẻ tiền
so với các loại đường khác. Loại đường bắp chứa fructose cao này bị chỉ trích
là có nhiều tác động xấu đến sức khỏe như là gây bệnh tiểu đường, tăng động,
tăng huyết áp và nhiều vấn đề khác nữa. Đường fructose bị hấp thu và chuyển hóa
nhanh hơn đường glucose do men fructokinase không bị tiết chế bởi sự chuyển hóa
hoặc hormon, đưa đến sự tạo ra các acid béo và triglycerid ở gan với tốc độ quá
nhanh, làm tăng sự tích tụ mỡ trong cơ thể và có thể gây chứng gan nhiễm mỡ
không do rượu.
Sự gia tăng lipid trong máu hình như cũng do sử dụng thường
xuyên fructose.
Phản ứng của các cơ quan chức năng:
Trước những hiểm họa đối với sức khỏe người dân mà các loại
nước ngọt có gas có thể gây ra, chính quyền ở một số nước đã từng đề ra nhiều
biện pháp để hạn chế:
Ở Mỹ, nhiều bang đã cấm đặt các máy bán nước ngọt gần trường
học vì cho rằng nước ngọt sẽ góp phần gây béo phì ở trẻ và sâu răng, nhưng cũng
có nhiều ý kiến chống lại, đặc biệt là do những khoản tài chánh hậu hỷ mà các
nhà sản xuất nước giải khát thường tài trợ cho các trường học.
Ngày 3/5/2006, Hiệp hội nước giải khát Hoa Kỳ cùng các hãng
sản xuất, trong đó có Coca Cola, Pepsi, Schweppes… đã ra tuyên bố tự nguyện rút
các loại nước ngọt có năng lượng cao khỏi các trường học. Kế đến, ngày
25/5/2006, bộ trưởng giáo dục Anh cũng tuyên bố: từ tháng 9/2006, không dùng nước
ngọt có gas trong bữa ăn trưa ở trường học và cũng không cho bán các thực phẩm
không có giá trị dinh dưỡng (trong đó có nước giải khát có gas) tại các máy bán
nước ngọt hay quầy giải khát trong trường học.
Các nhà làm luật cũng như các chuyên gia y tế và bảo vệ người
tiêu dùng còn đề xuất phải tăng thuế đánh trên các loại nước giải khát có đường
nhằm làm giảm tiêu thụ nước ngọt, giảm tệ nạn béo phì và các tác hại về sức khỏe
khác, nhưng vẫn chưa có kết quả vì các hãng nước giải khát đã có vị thế quan trọng
ở thủ đô Washington và từ năm 2000, họ đã đóng góp cho các nhà lập pháp hơn 50
triệu đô la!
Năm 2003, Trung tâm khoa học và môi trường, một tổ chức phi
lợi nhuận tại Ấn Độ công bố một báo cáo phát hiện nồng độ thuốc trừ sâu trong
nước giải khát Coca Cola và Pepsi bán ở Ấn Độ cao gấp 30 lần nồng độ an toàn
cho phép ở châu Âu, nhưng Bộ y tế Ấn Độ thì cho rằng thử nghiệm của trung tâm
kia không chính xác, vì thử nghiệm của bộ cho thấy nồng độ thuốc trừ sâu chỉ
cao hơn mức tiêu chuẩn của châu Âu, nhưng còn trong giới hạn tiêu chuẩn của Ấn
Độ (!)
Benzen:
Năm 2006, Cơ quan tiêu chuẩn thực phẩm ở Anh Quốc công bố những
kết quả khảo cứu về nồng độ benzen trong 150 sản phẩm nước giải khát có gas cho
thấy 4 mẫu chứa nồng độ benzen cao hơn mức hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới
về nước uống, nên đã yêu cầu rút các sản phẩm này ra khỏi thị
trường.
Tại Mỹ, FDA công bố những kết quả xét nghiệm nhiều loại nước
giải khát có chứa benzoat và acid erythorbic. Năm mẫu chứa nồng độ benzen cao
hơn tiêu chuẩn của Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ đề ra là 5 ppb. Sau đó, một
nhóm hoạt động bảo vệ môi trường đã phát hiện những kết quả sau đây
trong các xét nghiệm của FDA: trong 24 mẫu nước giải khát có
gas không đường xét nghiệm có chứa benzen, từ 1995 - 2001, thì 19 mẫu (79%) chứa
đến 19 ppb benzen, cao gấp 4 lần tiêu chuẩn cho phép. Một mẫu chứa đến 55 ppb,
tức là cao gấp 11 lần tiêu chuẩn cho phép. Vậy mà, năm 2006, FDA phát biểu rằng
“họ tin là nồng độ benzen tìm thấy trong các loại nước giải khát cho đến nay
không tạo ra mối quan ngại nào cho người tiêu dùng(?!)”.
HOÀNG Y - DS. DIỆU PHƯƠNG
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét